banner2019
 
Thứ sáu, ngày 22 tháng 11 năm 2024
Thứ sáu, ngày 22 tháng 11 năm 2024
TPP những tác động tới việc làm của người lao động
Cập nhật lúc 12:24 ngày 22/09/2015

Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là chủ trương lớn trong tổng thể quá trình đổi mới kinh tế của nước ta. Trong đó, tham gia Hiệp định hợp tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương là bước đi quan trọng của quá trình nhiều gian nan thử thách đó.

TPP- Cơ hội cho sự phát triển kinh tế Việt Nam

Hiệp định hợp tác Kinh tế chiến lược Xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement – còn gọi là TPP) là một Hiệp định thương mại tự do nhiều bên, được ký kết với mục tiêu thiết lập một mặt bằng thương mại tự do chung cho các nước khu vực châu Á Thái Bình Dương. Vì vậy, cùng với WTO, việc trở thành thành viên của TPP là một trong những dấu hiệu khẳng định sự hội nhập toàn diện kinh tế của Việt Nam với nền kinh tế toàn cầu và là dấu hiệu quan trọng của một môi trường đầu tư hấp dẫn. Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội và thuận lợi không thể phủ nhận, thì khi tham gia TPP, Việt Nam cũng phải đối mặt cả với những nguy cơ, thách thức và những khó khăn không hề nhỏ.

Đàm phán Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) giữa 12 nền kinh tế hai bờ Thái Bình Dương, trong đó có Việt Nam, là một trong những đàm phán thương mại tự do quan trọng nhất của Việt Nam trong thời gian này. Nếu được ký kết, TPP sẽ mở ra một thị trường thương mại chung rộng lớn với gần 800 triệu người tiêu dùng và 40% GDP toàn cầu. Cùng với đó, các thành viên đàm phán TPP nhất trí xây dựng một hiệp định TPP “tiêu chuẩn cao”, “thế hệ mới” với mức độ tự do hóa sâu, ở phạm vi rộng, bao gồm cả những vấn đề truyền thống và mới, cả các nội dung thương mại và phi thương mại.

Vì vậy, dự kiến TPP sau khi được ký kết sẽ có tác động mạnh mẽ tới tương lai của cả nền kinh tế cũng như của mỗi ngành kinh tế Việt Nam, trong đó các doanh nghiệp Việt Nam sẽ là những người hưởng lợi ích nhiều nhất từ hiệp định thương mại quốc tế này. Khi các dòng thuế giảm xuống, các doanh nghiệp Việt Nam có thể gia tăng xuất khẩu quần áo, giày dép  và nhiều mặt hàng khác vốn là thế mạnh của mình vào các thị trường lớn. Các thị trường mà doanh nghiệp Việt Nam có thể hướng đến là các thị trường của các nước thành viên chưa có hiệp định tự do thương mai song phương với Việt Nam như Mỹ, Canada, Mexico, Peru trong đó đáng lưu ý nhất là thị trường Mỹ. 

TPP có gì khác so với các hiệp định thương mại  Việt Nam đã ký?

Hiệp định TPP với 12 nước tham gia đàm phán bao phủ 40% GDP kinh tế toàn cầu và dự kiến mang lại thêm 300 tỷ USD nếu hiệp định hoàn thành.

TPP được đánh giá là hiệp định của thế kỷ XXI với kỳ vọng tạo ra một tiêu chuẩn, khuôn khổ cơ bản cho quá trình hội nhập khu vực, thậm chí của cả thế giới. So với các Hiệp định thương mại tự do khác (gọi chung là FTA), TPP có tham vọng, toàn diện và sâu rộng hơn hẳn. Điều này có thể nhìn thấy qua cách Mỹ đàm phán, “ông lớn” này không cho phép các mức cam kết của hiệp định thấp hơn các tiêu chuẩn, mức cam kết trong các FTA trước đây mà nước này đã ký.

Trong đàm phán TPP có những hình thức đàm phán đặc thù riêng, ví dụ các phiên họp cấp Bộ trưởng sẽ bàn về những vấn đề không thể quyết được ở cấp kỹ thuật mà cần các định hướng chính trị lớn hơn.

Từ năm 2011, các thành viên đã nhiều lần đặt ra các thời hạn mục tiêu để kết thúc đàm phán nhưng đều không thành công. Và dù kỳ vọng TPP sẽ được ký vào năm nay sau khi Tổng thống Mỹ - Barrack Obama giành được quyền đàm phán nhanh (TPA), song việc chưa đạt được thỏa thuận cuối cùng ở phòng đàm phán cấp Bộ trưởng vào tháng 7/2015 (28-31/7/2015), TPP vẫn cho thấy sự bế tắc. Các chuyên gia trước đó nhận định nếu lỡ cơ hội này, các nước sẽ phải chờ đến sau bầu cử Tổng thống Mỹ năm 2017 mới có thể ký được TPP. Khi ấy, tình hình có thể sẽ thay đổi.

Những điều này cho thấy tính chất phức tạp của các vấn đề trong đàm phán cũng như khoảng cách khác nhau giữa các nước trong nhiều lĩnh vực thuộc đàm phán TPP như sở hữu trí tuệ, thuế một số mặt hàng nhạy cảm, mua sắm Chính phủ…

Đàm phán TPP được thỏa thuận là đàm phán mật. Do đó ngoài các đoàn đàm phán và các cơ quan có thẩm quyền trong nội bộ từng nước, không có chủ thể nào khác được thông tin chính thức và chính xác về các nội dung đàm phán cụ thể. Tuy nhiên, qua các nguồn thông tin bị rò rỉ cho thấy TPP không chỉ bàn về các vấn đề thương mại, dịch vụ, đầu tư mà còn “lấn” sang cả lĩnh vực phi thương mại khác.

Trước kia khi đàm phán WTO, Việt Nam chỉ phải đàm phán 2 lĩnh vực là mở cửa thị trường hàng hóa và dịch vụ, cùng với đàm phán đa phương, thì nay sang TPP, Việt Nam phải đàm phán tới 30 chương, trong đó có những lĩnh vực lần đầu tiên như công đoàn, lao động, doanh nghiệp Nhà nước.

Trong thương mại, hiệp định yêu cầu phải mở cửa hoàn toàn thị trường trong lộ trình rất ngắn, tức là mức thuế gần như về 0%, chỉ trừ một số rất ít mặt hàng cực kì nhạy cảm sẽ qua cơ chế song phương. Đây được đánh giá là một phạm vi toàn diện hơn bất kỳ FTA nào. Ở lĩnh vực tài chính, sau WTO, gần như Việt Nam chưa đàm phán một hiệp định nào yêu cầu mở cửa tự do quy mô lớn ở lĩnh vực này. Song so với Hiệp định thương mại dịch vụ (GATS) của WTO, đàm phán dịch vụ tài chính trong TPP đã có nhiều khác biệt lớn.

Đàm phán TPP được thực hiện theo phương thức tiếp cận “chọn – bỏ”, khác với phương thức “chọn – cho” của WTO. Điều này có nghĩa TPP chỉ cho phép các nước bảo lưu một số lượng hạn chế các ngành, phân ngành và phải giải trình với lý do hợp lý để được bảo lưu. Nếu không giải trình được lý do nhạy cảm đó, thì phải tuân thủ đúng những nguyên tắc TPP, tức là phải mở cửa. Còn với khi đàm phán WTO, Việt Nam được chọn mở ngành nào sẽ mở ngành đó.

Chương lao động cũng hoàn toàn mới không chỉ đối với Việt Nam mà còn đối với nhiều đối tác trong đàm phán TPP, hầu như chưa từng xuất hiện trong các đàm phán thương mại trước đây (bao gồm cả WTO và các FTA thế hệ trước).

Trung tâm WTO đánh giá đàm phán về lao động chủ yếu tập trung xung quanh các cam kết liên quan tới các quyền lao động cơ bản. Đây không phải là những nội dung mới bởi hầu hết đã có trong các Công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), nhưng lại đặt ra thách thức lớn cho hầu hết các nước vì nhiều nước trong số này chưa gia nhập hoặc chưa phải thành viên của tất cả các Công ước liên quan của ILO.

Doanh nghiệp Nhà nước là một chương quan trọng trong đàm phán TPP, với mục tiêu đưa ra những quy định ràng buộc hoạt động của khu vực này ở các nước TPP, trong đó có Việt Nam. Đây là chế định thương mại mới, vì vậy các nước tham gia đàm phán có quan điểm rất khác nhau về vấn đề này.

TPP tác động tới việc làm của lao động Việt Nam

Việt Nam đang tận dụng mọi cơ hội để trở thành một nền kinh tế tăng trưởng nhanh, đi kèm chất lượng cuộc sống tăng cao. Điều này hoàn toàn có cơ sở khi Việt Nam có lực lượng lao động trẻ, dồi dào và các công ty đa quốc gia đang đổ dồn về đây cũng như mối quan hệ với Mỹ đang dần được cải thiện.

Nứơc ta trở thành thành viên của TPP tạo ra những ảnh hưởng mạnh mẽ tới đời sống kinh tế - xã hội, tạo ra những cơ hội lớn về tăng trưởng GDP và phúc lợi xã hội. Một số ngành kinh tế  có thể phát triển nhanh  nhờ vào mức tăng trưởng kinh tế đạt được thông qua quá trình tự do hóa thương mại như các ngành: Dệt may, Da giầy, thủ công nghiệp, thủy sản, điện tử, đồ gỗ và nội thất vv… Những tác động tích cực đến sự tăng trưởng kinh tế ở khu vực này sẽ mang lại nhiều cơ hội về việc làm, thu nhập cho một bộ phận lớn người lao động.

Trong các hoạt động thương mại quốc tế, tăng xuất khẩu có những ảnh hưởng tích cực trong việc tạo ra việc làm gián tiếp cho một bộ phận lao động qua việc cung ứng nguyên vật liệu, sơ chế sản phẩm phục vụ cho các cơ sở làm hàng xuất khẩu. Bên cạnh đó, tự do hóa thương mại và đầu tư cũng luôn dẫn đến tăng nhu cầu lao động. Mặt khác, mức linh hoạt của thị trường lao động sẽ tăng lên và từ đó dẫn đến việc nâng cao hiệu quả phân bổ nguồn lực lao động.

Sức ép cạnh tranh giữa các ngành, lĩnh vực, các doanh nghiệp trong và ngoài nước cũng gópphần tạo điều kiện để thị trường lao động phát triển. Thông qua đó, góp phần tạo động lực thúc đẩy mọi người lao động phải phấn đấu nâng cao trình độ, kỹ năng và ý thức lao động đáp ứng yêu cầu thị trường lao động. Ngoài ra, TPP làm tăng cơ hội để người lao động tiếp cận trực tiếp với nền sản xuất hiện đại , với trình độ và kinh nghiệm quản lý, điều hành sản xuất, kinh doanh tiên tiến của thế giới. qua đó góp phần nâng cao trình độ, kỹ năng, tác phong lao động, kiến thức tổ chức, quản lý của người lao động.

Vài năm gần đây, vốn đầu tư vào Việt Nam đã tăng cao do nhiều yếu tố. Một trong những yếu tố quan trọng nhất là chi phí lao động thấp. Chi phí nhân công tăng tại tại Trung Quốc đang khiến nhiều hãng sản xuất đa quốc gia hướng sự chú ý vào Việt Nam. Bên cạnh đó, sức mua của người tiêu dùng ngày càng tăng, lạm phát được kiềm chế và nhiều biện pháp nới lỏng quy định nhằm thúc đẩy tăng trưởng cũng là lý do vốn đầu tư liên tục đổ vào đây.

Báo cáo khảo sát về tình hình hoạt động của doanh nghiệp Mỹ tại các nước thuộc ASEAN vừa được Phòng Thương mại Mỹ tại Singapore (AmCham Singapore) công bố cho thấy các nhà đầu tư vẫn lạc quan về triển vọng kinh doanh tại đây. 

Cuộc khảo sát này cho thấy ASEAN là một khu vực năng động và có tiềm năng tăng trưởng lớn, với dân số trẻ và triển vọng hội nhập sâu. Trong đó Việt Nam được coi là điểm hấp dẫn thứ hai trong khu vực để các doanh nghiệp Mỹ mở rộng kinh doanh, sau Indonesia. Nhà đầu tư nước ngoài đánh giá Việt Nam có thế mạnh trong mối quan hệ tốt đẹp với Mỹ, thị trường lao động dồi dào với chi phí thấp và môi trường vĩ mô ổn định.

 

Việt Nam là điểm đến hấp dẫn thứ hai trong khu vực ASEAN để mở rộng đầu tư. Nguồn: AmCham Singapore

Các yếu tố trên sẽ là cơ sở tạo đà cho việc đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, tạo môi trường thuận lợi cho việc phát triển các doanh nghiệp. Đây chính là chuyển biến tích cực tạo tạo thêm nhiều cơ hội việc làm, làm giảm thất nghiệp và tăng thu nhập cho người lao động.

Bên cạnh những tác động tích cực đối với việc làm thì vấn đề tự do hóa thương mại của TPP cũng sẽ làm cho một bộ phận lao động mất việc do các doanh nghiệp của ta không có khả năng cạnh tranh dẫn đến phải thu hẹp sản xuất thậm chí giải thể, phá sản. Vì vậy trước mắt khi tham gia TPP, lao động Việt Nam có thể phải chịu những bất lợi như:

- Một số doanh nghiệp, ngành sản xuất phải thực hiện tái cơ cấu, sắp xếp lại sản xuất, kinh doanh và giảm bớt lao động  dẫn đến một bộ phận lao động bị mất việc làm, phải tìm công việc mới.

- Cùng với mở cửa thị trường, hàng hóa của các nước đặc biệt là hàng tiêu dùng sẽ nhập khẩu vào Việt Nam với số lượng ngày càng lớn và đa dạng. Hàng hóa nhập khẩu với nhiều ưu thế về chất lượng, giá cả và tâm lý thích dùng hàng ngoại của người Việt nên hàng nhập khẩu rất dễ chiếm lĩnh thị trường. Tình trạng này khiến doanh nghiệp trong nước gặp nhiều khó khăn phải thu hẹp sản xuất hoặc phá sản dẫn đến lao động trong các doanh nghiệp đó bị mất việc làm.

- Cùng với quá trình CNH,HĐH đất nước, tham gia TPP sẽ góp phần thúc đẩy tốc độ di chuyển lao động từ nông thôn tới thành phố và các khu công nghiệp. Sức ép về việc làm ở các khu đô thi sẽ tăng lên. Vấn đề mất cân bằng giữa cung và cầu lao động có nguy cơ trở nên trầm trọng hơn dẫn đến tỷ lệ thất nghiệp có nguy cơ tăng cao.

Tuy nhiên , đánh giá tổng quát, về lâu dài, tham gia TPP sẽ mang lại nhiều ảnh hưởng tích cực  hơn là tiêu cực đối với lao động nước ta về việc làm và thu nhập.

                                                                                     Hồ Giao